Phụ nữ dân tộc thiểu số – Lamdepthammy.com https://lamdepthammy.com Nơi chia sẻ bí quyết để bạn luôn xinh đẹp, tự tin và quyến rũ. Wed, 24 Sep 2025 13:57:07 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/lamdepthammy/2025/08/lamdepthammy.svg Phụ nữ dân tộc thiểu số – Lamdepthammy.com https://lamdepthammy.com 32 32 Mở lớp học xóa mù chữ cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở vùng cao https://lamdepthammy.com/mo-lop-hoc-xoa-mu-chu-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-o-vung-cao/ Wed, 24 Sep 2025 13:57:05 +0000 https://lamdepthammy.com/mo-lop-hoc-xoa-mu-chu-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-o-vung-cao/

Ở các xã vùng cao của tỉnh Hòa Bình, như Bao La, Tân Pheo, Đà Bắc, những lớp học đặc biệt được tổ chức sau mỗi mùa gặt. Vài chục người phụ nữ dân tộc Mường, Dao, Thái cùng ngồi bên nhau, chăm chú nghe giảng về từng nét chữ đầu tiên. Đây là những lớp “giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ”, một phần trong nỗ lực xóa mù chữ và nâng cao năng lực học tập cộng đồng do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình phối hợp tổ chức.

Từ năm 2020 đến nay, đã có 6 lớp như vậy được mở, với 125 học viên, 100% là nữ và là người dân tộc thiểu số. Họ đến lớp không vì điểm số, không vì bằng cấp mà vì một điều giản dị: Biết đọc tên mình, biết viết đơn xin vay vốn, hiểu những dòng chữ in trên bao thuốc trừ sâu hay đơn khám bệnh.

Bà Hà Thị Nhung, người dân tộc Thái ở xã Bao La, đã bắt đầu một hành trình mới – học chữ ở cái tuổi ngũ tuần. Trước kia, mỗi lần đi trạm y tế hay nhận hỗ trợ, bà đều phải nhờ người khác điền giúp giấy tờ. Có khi, cán bộ bảo ký tên, bà chỉ biết cười trừ, đưa ngón tay ra lăn dấu. “Tôi xấu hổ lắm. Đến tên mình cũng không viết nổi”, bà Nhung chia sẻ.

Cơ hội đến khi Trung tâm học tập cộng đồng xã Bao La mở lớp học sau biết chữ vào buổi tối, tranh thủ khi người dân đã thu hoạch xong mùa vụ. Lớp học nhỏ, chỉ có một chiếc bàn gỗ dài và những cuốn vở đã ngả màu theo tay học viên. Nhưng với bà Nhung, đó là thế giới khác – nơi bà bắt đầu nhận diện lại chính mình qua từng con chữ.

Tính đến nay, các xã khu vực Hòa Bình cũ đạt tỷ lệ nữ biết chữ là 99,81%, trong đó nữ dân tộc thiểu số và miền núi đạt 99,64% – vượt xa mục tiêu 93% được đặt ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Đây không chỉ là một thành tích trong lĩnh vực giáo dục mà còn là kết quả của quá trình kiên trì xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau biết chữ và xây dựng mô hình học tập cộng đồng bền vững.

Tuy nhiên, biết chữ không đơn thuần là đích đến mà là điểm khởi đầu cho một hành trình dài hơi – hành trình trao quyền, xây dựng năng lực tự chủ cho người phụ nữ. “Khi người phụ nữ biết đọc, biết viết, họ có thể tiếp cận thông tin, hiểu quyền lợi, chủ động trong kinh tế gia đình và chăm sóc con cái. Quan trọng hơn, họ trở thành người truyền cảm hứng học tập trong bản làng, nơi mà việc cầm bút, đi học với phụ nữ từng là điều xa lạ, thậm chí bị cho là ‘không cần thiết'”, ông Trần Văn An – Trưởng Phòng Giáo dục thường xuyên, Sở Giáo dục và Đào tạo chia sẻ.

Dù kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, nhưng thực tế ở các xã vùng cao vẫn đặt ra không ít thách thức. Ở một số địa bàn đặc biệt khó khăn, việc duy trì kết quả sau xóa mù chữ chưa thật sự ổn định. Nhiều phụ nữ lớn tuổi quanh năm bám nương, ít có điều kiện tiếp cận thông tin vẫn đang đối mặt nguy cơ tái mù.

Những bước đi căn cơ đang dần được triển khai để đảm bảo “biết chữ” không chỉ là thành tích mà phải là nền móng cho sự phát triển. Từ năm 2025, Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình được giao nhiệm vụ đưa các nội dung về giới, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vào chương trình đào tạo giáo viên. Cùng với đó, các trung tâm học tập cộng đồng ở cơ sở cũng đang được mở rộng vai trò. Từ chỗ chỉ dạy chữ sang hướng dẫn kỹ năng sản xuất, sử dụng công nghệ số, khởi nghiệp tại chỗ… Đây là bước đi cho thấy chương trình xoá mù, nâng cao năng lực cộng đồng không chỉ truyền đạt con chữ, mà còn giúp thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số.

Từ một chương trình xóa mù chữ ban đầu, Hòa Bình đang chuyển mình từng bước để làm cho “học tập suốt đời” trở thành hiện thực ở cả những bản làng xa nhất. Và ở đó, mỗi người phụ nữ biết chữ, dù chỉ một câu, một dòng, cũng đang viết nên phần tương lai tươi sáng hơn của chính mình.

]]>
Quảng Ninh: Phụ nữ chung tay bảo tồn và lan tỏa giá trị văn hóa https://lamdepthammy.com/quang-ninh-phu-nu-chung-tay-bao-ton-va-lan-toa-gia-tri-van-hoa/ Thu, 18 Sep 2025 14:44:11 +0000 https://lamdepthammy.com/quang-ninh-phu-nu-chung-tay-bao-ton-va-lan-toa-gia-tri-van-hoa/

Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Quảng Ninh đã và đang tích cực triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững. Các hoạt động này không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc mà còn lan tỏa tinh thần sáng tạo và hành động văn minh trong thời đại số.

Trong các dịp lễ, tết, các hoạt động quan trọng, chị em phụ nữ thường mặc trang phụ áo dài nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống và lan tỏa tình yêu đối với tà áo dài.
Trong các dịp lễ, tết, các hoạt động quan trọng, chị em phụ nữ thường mặc trang phụ áo dài nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống và lan tỏa tình yêu đối với tà áo dài.

Từ năm 2022 đến nay, Hội LHPN Quảng Ninh đã chủ động xây dựng chương trình hành động và triển khai hiệu quả nhiều mô hình, hoạt động thiết thực. Các cấp hội phụ nữ trong tỉnh đã tăng cường tuyên truyền sâu rộng nội dung Nghị quyết 17-NQ/TU, gắn với các phong trào thi đua như ‘Xây dựng hình ảnh phụ nữ thời đại mới’, ‘Gia đình 5 không, 3 sạch’, ‘Gia đình hạnh phúc’… Qua đó, các đặc trưng con người Quảng Ninh và 6 giá trị đặc trưng của tỉnh đã được lan tỏa rộng khắp tới đông đảo cán bộ, hội viên phụ nữ toàn tỉnh.

Hội viên phụ nữ phường Uông Bí tham gia chương trình giao lưu văn nghệ - dân vũ chào mừng kỷ niệm 24 năm Ngày Gia đình Việt Nam 28/6.
Hội viên phụ nữ phường Uông Bí tham gia chương trình giao lưu văn nghệ – dân vũ chào mừng kỷ niệm 24 năm Ngày Gia đình Việt Nam 28/6.

Hội LHPN Quảng Ninh đã thành lập 23 CLB gìn giữ văn hóa truyền thống tại các xã, phường như Ba Chẽ, Bình Liêu, Tiên Yên, Đầm Hà, Uông Bí, Quảng Yên… Các sinh hoạt này vừa là nơi hội tụ văn hóa cộng đồng, vừa là ‘lớp học truyền thống’ dành cho thế hệ trẻ tại mỗi vùng quê. Bên cạnh đó, gần 2.000 mô hình, CLB văn hóa, văn nghệ – thể dục, thể thao cộng đồng đã được duy trì thường xuyên, tạo nên không gian rèn luyện sức khỏe và gắn kết phụ nữ toàn tỉnh. Các dịp 8/3, 20/10, hay những ngày lễ lớn, các cấp hội cũng tổ chức nhiều chương trình mang đậm bản sắc, như: Tuần lễ áo dài, ngày hội trang phục các dân tộc thiểu số…

Nhiều năm qua, mô hình "Biến rác thành tiền" của Hội LHPN phường Đông Triều được thực hiện để gây quỹ để ủng hộ cho hội viên phụ nữ và người dân có hoàn cảnh trên địa bàn.
Nhiều năm qua, mô hình “Biến rác thành tiền” của Hội LHPN phường Đông Triều được thực hiện để gây quỹ để ủng hộ cho hội viên phụ nữ và người dân có hoàn cảnh trên địa bàn.

Hội LHPN Quảng Ninh cũng đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng sống cho hội viên, nhất là với phụ nữ dân tộc thiểu số. Nhiều hội thảo, chương trình tập huấn về tổ chức cuộc sống gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản, kỹ năng làm cha mẹ… đã được tổ chức rộng khắp. Hiện, 16 mô hình ‘Chăm sóc, giáo dục trẻ thơ toàn diện’ đã được thành lập tại vùng miền núi, dân tộc thiểu số. Ngoài ra, nhiều mô hình giáo dục gia đình tiếp tục được nhân rộng, như: ‘Nuôi dạy con tốt’, ‘Ông bà gương mẫu – Con cháu thảo hiền’; tư vấn, giáo dục tiền hôn nhân, kỹ năng sống cho trẻ em gái, phòng chống bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em…

Các chương trình: ‘Mẹ đỡ đầu’, ‘Đồng hành cùng phụ nữ biên cương’… tiếp tục phát huy hiệu quả rõ nét. Riêng chương trình ‘Mẹ đỡ đầu’ từ năm 2022 đến nay đã hỗ trợ, đỡ đầu cho 720 trẻ mồ côi có hoàn cảnh khó khăn với tổng kinh phí vận động hơn 5 tỷ đồng.

Không dừng lại ở việc gìn giữ, phụ nữ Quảng Ninh còn tiên phong trong lan tỏa giá trị văn hóa bằng nhiều cách làm sáng tạo, thích ứng với thời đại công nghệ số. Với hơn 1.000 nhóm zalo, fanpage và các nền tảng mạng xã hội của Hội Phụ nữ các cấp, hàng nghìn thông tin tích cực, câu chuyện đẹp, hình ảnh người tốt – việc tốt được lan truyền hằng ngày, trở thành kênh tuyên truyền hiệu quả, thân thiện, gần gũi với cộng đồng.

Các cuộc thi: ‘Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo phát huy tài nguyên bản địa’, ‘Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo và chuyển đổi xanh’… khơi dậy tinh thần đổi mới, giúp nhiều sản phẩm OCOP của các cơ sở sản xuất do phụ nữ làm chủ mở rộng thị trường tiêu thụ. Hiện nay, tổng dư nợ ủy thác Ngân hàng CSXH do Hội Phụ nữ quản lý đạt hơn 2.480 tỷ đồng, cao nhất trong các tổ chức chính trị – xã hội, hỗ trợ trên 35.500 hộ phụ nữ phát triển kinh tế bền vững.

Hội Phụ nữ các cấp còn đẩy mạnh phong trào thi đua ‘Xây dựng hình ảnh người phụ nữ Quảng Ninh thời đại mới có tri thức, đạo đức, sức khỏe, năng động, sáng tạo, văn minh, thân thiện’ gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hội viên phụ nữ thực hiện tốt hương ước, quy ước, nếp sống văn minh nơi công sở và địa phương nơi cư trú; tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam: ‘Tự tin – Tự trọng – Trung hậu – Đảm đang’.

Trong thời gian tới, Hội LHPN Quảng Ninh sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục các tồn tại, hạn chế; quán triệt và triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhất là ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

]]>
Phụ nữ dân tộc thiểu số đổi đời nhờ đan dây lá buông https://lamdepthammy.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-doi-doi-nho-dan-day-la-buong/ Wed, 03 Sep 2025 10:42:24 +0000 https://lamdepthammy.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-doi-doi-nho-dan-day-la-buong/

Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Bắc Khánh Vĩnh đã triển khai một mô hình sáng tạo nhằm hỗ trợ hội viên, đặc biệt là phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số, kiếm thêm thu nhập trong thời gian rảnh rỗi. Tổ đan dây lá buông được thành lập vào tháng 5 năm 2024 với 10 thành viên, đa phần là người Raglai, đã trở thành một điểm sáng trong việc phát triển kinh tế tại địa phương.

Người dân phơi lá buông.
Người dân phơi lá buông.

Với nguồn nguyên liệu lá buông dồi dào tại địa phương và các khu vực lân cận, tổ đã tổ chức hướng dẫn kỹ thuật đan lá buông và hỗ trợ chị em tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm. Quá trình sản xuất dây lá buông bắt đầu từ việc chặt lá tươi, sau đó phơi khô và xé thành nhánh riêng để tước sợi. Kỹ thuật làm dây lá buông đòi hỏi sự tỉ mỉ và kinh nghiệm, đặc biệt là việc ủ lá qua đêm để lá không bị đứt gãy và giữ được màu xanh đặc trưng.

Tổ trưởng Tổ đan dây lá buông, bà Cao Lệ Hân, đã chia sẻ kinh nghiệm của mình về cách làm dây lá buông. Theo bà, công việc đan dây lá buông không đòi hỏi thời gian cố định, lại làm quanh năm nên ai cũng có thể tham gia. Các thành viên của tổ đã có thể kiếm thêm thu nhập cho gia đình thông qua việc làm dây lá buông.

Trước đây, người dân tự bán cho thương lái với giá 2.000 đồng/cuộn, nhưng khi thành lập tổ, các thành viên hỗ trợ nhau chở sản phẩm đi tiêu thụ để có giá bán tốt hơn. Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Bắc Khánh Vĩnh đã tích cực liên hệ, tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm và hỗ trợ các thành viên trong tổ. Hiện nay, các thành viên đã có thể bán sản phẩm với giá 3.000 đồng/cuộn.

Tổ đan dây lá buông đã trở thành một mô hình giúp đỡ hội viên, đặc biệt là phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số kiếm thêm thu nhập và cải thiện cuộc sống. Mô hình này không chỉ giúp chị em có thêm thu nhập mà còn góp phần phát triển kinh tế tại địa phương.

Thời gian tới, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình để nhiều hội viên tham gia, giúp chị em có điều kiện kiếm thêm thu nhập lo cho gia đình. Đồng thời, Hội cũng sẽ tiếp tục hỗ trợ các thành viên trong tổ để họ có thể phát triển sản xuất và kinh doanh dây lá buông một cách bền vững.

Thông tin về mô hình Tổ đan dây lá buông của Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Bắc Khánh Vĩnh có thể được tìm thấy tại địa chỉ trang web của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

]]>
Gần 7.000 bà mẹ dân tộc thiểu số được hỗ trợ sinh đẻ an toàn https://lamdepthammy.com/gan-7-000-ba-me-dan-toc-thieu-so-duoc-ho-tro-sinh-de-an-toan/ Sat, 23 Aug 2025 05:56:54 +0000 https://lamdepthammy.com/gan-7-000-ba-me-dan-toc-thieu-so-duoc-ho-tro-sinh-de-an-toan/

Một dự án hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em đang được triển khai mạnh mẽ tại 10 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Đây là một phần quan trọng của Dự án 8 thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Mục tiêu chính của dự án là giảm thiểu tỷ lệ sinh con tại nhà, đặc biệt là ở những vùng có đông người DTTS và có tỷ lệ sinh con tại nhà cao hơn mức trung bình của cả nước. Dựa trên kết quả Điều tra thực trạng kinh tế xã hội 53 DTTS Việt Nam năm 2019 của Tổng cục Thống kê, các tỉnh gồm Gia Lai, Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên là những địa bàn có tỷ lệ sinh con tại nhà cao.

Chị em phụ nữ DTTS ở Hà Giang được tập huấn kiến thức làm mẹ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em
Chị em phụ nữ DTTS ở Hà Giang được tập huấn kiến thức làm mẹ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em

Để đạt được mục tiêu này, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam đã đề xuất bổ sung đầy đủ gói chính sách hỗ trợ chế độ cho bà mẹ đi khám thai trong Thông tư 55/2023/TT-BTC. Đồng thời, hội cũng đề xuất hỗ trợ gói vật tư chăm sóc khi sinh đối với trường hợp bà mẹ sinh từ 2 bé trở lên.

Để triển khai dự án, Hội LHPN các cấp đã phối hợp với ngành Y tế cùng cấp triển khai 4 gói hỗ trợ, bao gồm hỗ trợ chế độ cho bà mẹ đi khám thai, hỗ trợ vật tư chăm sóc khi sinh, hỗ trợ sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em. Tính đến nay, các tỉnh đã chi trả chế độ hỗ trợ cho gần 7.000 bà mẹ với tổng kinh phí hỗ trợ khoảng 9 tỷ đồng.

Đáng chú ý, 5 trong 10 tỉnh đã đạt và vượt chỉ tiêu 80% phụ nữ thuộc nhóm dân tộc có tỷ lệ sinh con tại nhà cao được tuyên truyền, vận động, tư vấn kiến thức và tiếp cận với dịch vụ sinh đẻ an toàn. Hội LHPN Việt Nam cũng đã tổ chức 8 chuỗi sự kiện truyền thông vận động phụ nữ sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em tại 8 tỉnh có tỷ lệ sinh con tại nhà cao.

Dự án này không chỉ giúp giảm tỷ lệ sinh con tại nhà mà còn nâng cao kiến thức và kỹ năng chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ DTTS, góp phần cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại các vùng khó khăn. Qua đó, dự án cũng hướng tới giảm khoảng cách về chăm sóc sức khỏe giữa các vùng miền và nâng cao chất lượng cuộc sống cho phụ nữ và trẻ em ở vùng DTTS.

Thông tin về dự án và các hoạt động hỗ trợ có thể được tìm hiểu thêm tại trang web của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Các thông tin cập nhật về dự án và các hoạt động sẽ được đăng tải trên trang web để người dân và các tổ chức có thể theo dõi và ủng hộ.

Nhìn chung, dự án hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em là một nỗ lực quan trọng nhằm cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho phụ nữ và trẻ em ở vùng DTTS. Với sự phối hợp và hỗ trợ từ các cấp chính quyền, ngành y tế và hội LHPN, dự án này hứa hẹn sẽ mang lại những kết quả tích cực trong thời gian tới.

]]>
Chị Út Tịch – Biểu tượng bất tử của người phụ nữ Nam bộ https://lamdepthammy.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/ Sun, 17 Aug 2025 04:27:09 +0000 https://lamdepthammy.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/

Chị Út Tịch – Một Biểu Tượng Bất Tử Của Người Phụ Nữ Vùng Dân Tộc Thiểu Số Nam Bộ

Chị Út Tịch, tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong cuộc chiến tranh giữ nước và dựng nước. Cuộc đời của chị là một bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự kiên trung và hy sinh cao cả. Với tấm gương sáng và tinh thần bất khuất, chị Út Tịch đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ người phụ nữ Việt Nam.

Chị Út Tịch mồ côi mẹ từ nhỏ và đã phải tự mình đi bán chè, gánh nước, mót lúa để sinh nhai. Lấy chồng sớm và có 6 người con, chị là điển hình của mẫu người phụ nữ ‘không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết’. Chồng chị, ông Lâm Văn Tịch, là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Sau khi ông Tịch bị địch sát hại, chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích để tiếp tục chiến đấu cho độc lập và tự do của dân tộc.

Với hành trang đơn sơ, chị Út Tịch đã chiến đấu qua muôn vàn gian khổ, không rời hàng ngũ dù có người khuyên chị nên về chăm sóc các con nhỏ. Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người duy nhất hy sinh, nhưng trong chị có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc. Sự hy sinh của chị Út Tịch vào năm 1968, khi con gái út của chị mới lên 3 tuổi, đã trở thành một biểu tượng đau thương nhưng cũng rất anh hùng.

Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng mà còn là một hình bóng máu thịt trong đời sống của bà con miền Tây. Tượng đài chị Út Tịch được đúc bằng đồng, đặt tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân. Hàng nghìn phụ nữ miền Tây đã khóc chị vào ngày chị ngã xuống, và cho đến nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, không mang súng ra trận nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình.

Ngày nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, điển hình như chị Thạch Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long, hay chị Nguyễn Thị Nhiền, Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh. Họ đã chứng minh rằng phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu mà là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân. Trong thời đại hiện nay, với những thách thức mới, cần có chiến lược hỗ trợ những ‘Út Tịch thời bình’ để họ có thể phát triển và vươn lên.

Cụ thể, cần thiết lập Chương trình hành động quốc gia ‘Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035’, thành lập Quỹ ‘Ngọn lửa Út Tịch’ hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn, bổ sung vào giáo trình và truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, và tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ‘Phụ nữ vùng căn cứ – Từ lịch sử đến chính sách’. Bằng cách đó, chúng ta có thể tiếp tục phát huy tinh thần của chị Út Tịch và tạo điều kiện cho phụ nữ vùng căn cứ phát triển, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và phát triển bền vững.

Chúng ta hãy cùng nhau tưởng nhớ và tôn vinh chị Út Tịch, một biểu tượng bất tử của người phụ nữ Việt Nam. Tấm gương của chị Út Tịch sẽ mãi mãi là nguồn cảm hứng cho chúng ta trên con đường xây dựng và phát triển đất nước.

]]>
Trung ương Hội LHPN Việt Nam làm việc với Hội LHPN tỉnh Tuyên Quang https://lamdepthammy.com/trung-uong-hoi-lhpn-viet-nam-lam-viec-voi-hoi-lhpn-tinh-tuyen-quang/ Sat, 09 Aug 2025 15:58:31 +0000 https://lamdepthammy.com/trung-uong-hoi-lhpn-viet-nam-lam-viec-voi-hoi-lhpn-tinh-tuyen-quang/

Ngày 25/7, tại Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Tuyên Quang, Đoàn công tác Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tiến hành kiểm tra và giám sát hoạt động ủy thác, cũng như nắm bắt tình hình hoạt động công tác hội và phong trào phụ nữ tại tỉnh Tuyên Quang. Sự kiện có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo, bao gồm Ma Thế Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh; và đại diện từ các sở, ngành liên quan.

Đồng chí Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát biểu tại buổi làm việc.
Đồng chí Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát biểu tại buổi làm việc.

Sau quá trình hợp nhất tỉnh, bộ máy các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Tuyên Quang đã được kiện toàn và sắp xếp ổn định, đảm bảo hoạt động thông suốt. Hội hiện có trên 335 nghìn hội viên, trong đó hơn 60% hội viên là đồng bào dân tộc thiểu số. Các hoạt động trọng tâm và phong trào thi đua yêu nước đã được điều chỉnh linh hoạt, tích hợp nội dung phù hợp với tình hình thực tế. Hoạt động nhận ủy thác với ngân hàng và các tổ chức tín dụng được triển khai đồng bộ, giúp hội viên phát triển kinh tế.

Đồng chí Ma Thế Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh phát biểu tại buổi làm việc.
Đồng chí Ma Thế Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh phát biểu tại buổi làm việc.

Tính đến ngày 30/6, dư nợ qua Ngân hàng CSXH tỉnh đạt hơn 3.000 tỷ đồng, qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hơn 1.500 tỷ đồng, nguồn vốn Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh tăng trưởng tích cực. Hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn ở cơ sở ngày càng phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng quản lý và giám sát sử dụng vốn vay.

Tại buổi làm việc, đại diện các đơn vị đã trao đổi và thảo luận về những vấn đề vướng mắc và khó khăn trong việc thực hiện hoạt động Hội, cũng như khó khăn trong hoạt động nhận ủy thác cho vay vốn trong bối cảnh các cấp Hội vừa vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Ma Thế Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, đã đánh giá cao tinh thần chủ động và quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo của Hội trong việc bám sát Nghị quyết Đại hội Phụ nữ các cấp và chỉ đạo của Trung ương Hội. Đồng chí đề nghị lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh chỉ đạo sát sao, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của Hội LHPN cấp cơ sở; đảm bảo nội dung chất lượng, đổi mới, thực tiễn, sát với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Qua buổi kiểm tra và trao đổi trực tiếp tại cơ sở, đồng chí Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đã đánh giá cao kết quả đạt được trong công tác Hội và kết quả thực hiện việc cho vay ủy thác tại địa phương. Đồng chí đề nghị Hội LHPN tỉnh tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về tín dụng xã hội đến hội viên, phụ nữ, nhất là tại các địa bàn mới sau sáp nhập; triển khai tập huấn nghiệp vụ công tác hội; hỗ trợ hội viên sử dụng hiệu quả vốn vay thông qua các hoạt động hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, tạo việc làm bền vững, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

]]>
Nâng cao thu nhập nhờ phát triển ngành măng bền vững https://lamdepthammy.com/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-nganh-mang-ben-vung/ Mon, 04 Aug 2025 07:27:07 +0000 https://lamdepthammy.com/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-nganh-mang-ben-vung/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Tại Lào Cai, đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm. Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng tăng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta. Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé. Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua.

Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái. Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo.

Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương. Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng.

Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất. Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo.

Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu.

Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>