Nam Bộ – Lamdepthammy.com https://lamdepthammy.com Nơi chia sẻ bí quyết để bạn luôn xinh đẹp, tự tin và quyến rũ. Sun, 17 Aug 2025 04:27:12 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/lamdepthammy/2025/08/lamdepthammy.svg Nam Bộ – Lamdepthammy.com https://lamdepthammy.com 32 32 Chị Út Tịch – Biểu tượng bất tử của người phụ nữ Nam bộ https://lamdepthammy.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/ Sun, 17 Aug 2025 04:27:09 +0000 https://lamdepthammy.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/

Chị Út Tịch – Một Biểu Tượng Bất Tử Của Người Phụ Nữ Vùng Dân Tộc Thiểu Số Nam Bộ

Chị Út Tịch, tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong cuộc chiến tranh giữ nước và dựng nước. Cuộc đời của chị là một bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự kiên trung và hy sinh cao cả. Với tấm gương sáng và tinh thần bất khuất, chị Út Tịch đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ người phụ nữ Việt Nam.

Chị Út Tịch mồ côi mẹ từ nhỏ và đã phải tự mình đi bán chè, gánh nước, mót lúa để sinh nhai. Lấy chồng sớm và có 6 người con, chị là điển hình của mẫu người phụ nữ ‘không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết’. Chồng chị, ông Lâm Văn Tịch, là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Sau khi ông Tịch bị địch sát hại, chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích để tiếp tục chiến đấu cho độc lập và tự do của dân tộc.

Với hành trang đơn sơ, chị Út Tịch đã chiến đấu qua muôn vàn gian khổ, không rời hàng ngũ dù có người khuyên chị nên về chăm sóc các con nhỏ. Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người duy nhất hy sinh, nhưng trong chị có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc. Sự hy sinh của chị Út Tịch vào năm 1968, khi con gái út của chị mới lên 3 tuổi, đã trở thành một biểu tượng đau thương nhưng cũng rất anh hùng.

Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng mà còn là một hình bóng máu thịt trong đời sống của bà con miền Tây. Tượng đài chị Út Tịch được đúc bằng đồng, đặt tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân. Hàng nghìn phụ nữ miền Tây đã khóc chị vào ngày chị ngã xuống, và cho đến nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, không mang súng ra trận nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình.

Ngày nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, điển hình như chị Thạch Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long, hay chị Nguyễn Thị Nhiền, Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh. Họ đã chứng minh rằng phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu mà là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân. Trong thời đại hiện nay, với những thách thức mới, cần có chiến lược hỗ trợ những ‘Út Tịch thời bình’ để họ có thể phát triển và vươn lên.

Cụ thể, cần thiết lập Chương trình hành động quốc gia ‘Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035’, thành lập Quỹ ‘Ngọn lửa Út Tịch’ hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn, bổ sung vào giáo trình và truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, và tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ‘Phụ nữ vùng căn cứ – Từ lịch sử đến chính sách’. Bằng cách đó, chúng ta có thể tiếp tục phát huy tinh thần của chị Út Tịch và tạo điều kiện cho phụ nữ vùng căn cứ phát triển, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và phát triển bền vững.

Chúng ta hãy cùng nhau tưởng nhớ và tôn vinh chị Út Tịch, một biểu tượng bất tử của người phụ nữ Việt Nam. Tấm gương của chị Út Tịch sẽ mãi mãi là nguồn cảm hứng cho chúng ta trên con đường xây dựng và phát triển đất nước.

]]>
Bảo tồn văn hóa Khmer ở miền Tây Nam Bộ: Giữ gìn bản sắc cho thế hệ mai sau https://lamdepthammy.com/bao-ton-van-hoa-khmer-o-mien-tay-nam-bo-giu-gin-ban-sac-cho-the-he-mai-sau/ Sun, 03 Aug 2025 13:16:53 +0000 https://lamdepthammy.com/bao-ton-van-hoa-khmer-o-mien-tay-nam-bo-giu-gin-ban-sac-cho-the-he-mai-sau/

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất đa dạng văn hóa, với trên 100 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tại đây, đời sống văn hóa tinh thần của bà con đã có nhiều bước tiến đáng kể nhờ sự nỗ lực của người dân và sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của Trung ương, địa phương. Đặc biệt, văn hóa Khmer ở đây đã trở thành nét bản sắc của vùng đất, với nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống được phục hồi và phát triển.

Đời sống ngày càng được nâng cao là điều kiện thuận lợi để đồng bào Khmer thụ hưởng văn hóa tinh thần tốt hơn. Nhiều lễ hội văn hóa, nghi thức tôn giáo được gìn giữ, trở thành các sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo. Một số lễ hội nổi tiếng như Lễ Chôl Chnaam Thmây (mừng năm mới), Sen Đôn-ta (lễ cúng ông bà), Oóc Om Bóc (lễ cúng trăng), lễ nhập hạ, xuất hạ… Lễ hội đua ghe ngo (thành phố Cần Thơ), đua bò truyền thống (tỉnh An Giang) thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài địa phương đến theo dõi, cổ vũ.

Không chỉ có lễ hội, mà những ngôi chùa với những kiến trúc nghệ thuật đặc sắc cũng là nơi thu hút nhiều du khách đến tham quan. Đến với các ngôi chùa Khmer, du khách có thể tìm hiểu một số tập tục được gìn giữ bao đời nay như Lễ dâng cơm, Lễ Kathina (Lễ dâng y cà sa), tục gửi con vào chùa tu học giáo lý Phật pháp, học làm người… Văn hóa Khmer Nam Bộ từ lâu đã trở thành nét bản sắc của vùng đất Cần Thơ. Với sự độc đáo và giá trị văn hóa đặc sắc, đây chính là nguồn tài nguyên quý báu để phát triển loại hình du lịch văn hóa, góp phần đưa Cần Thơ trở thành một trong những điểm đến nổi bật của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Ông Lâm Hoàng Mẫu, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo thành phố Cần Thơ, cho biết mỗi ngôi chùa Khmer đều là nơi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào tại địa phương. Đây không chỉ là nơi lưu giữ giá trị tâm linh, mà còn là trung tâm văn hóa, nghệ thuật độc đáo. Thời gian qua, các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam Bộ đã thực hiện nhiều chính sách chăm lo đời sống của đồng bào dân tộc Khmer, trong đó, đặc biệt quan tâm bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống; góp phần tạo cơ hội cho người dân địa phương tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa cho thế hệ mai sau.

Tuy nhiên, các thiết chế văn hóa – thể thao, trang thiết bị hỗ trợ sinh hoạt văn nghệ, thể thao ở các xã vùng đồng bào dân tộc Khmer chưa hoàn thiện, còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt, giao lưu văn hóa của người dân. Nhiều loại hình văn hóa dân gian của đồng bào dân tộc Khmer đang có dấu hiệu bị lãng quên. Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer, các cấp, các ngành cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực nòng cốt trong công tác bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc Khmer, đề cao vai trò của các sư sãi, nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng.

Tìm hiểu thêm về văn hóa Khmer tại Đồng bằng sông Cửu Long và các nỗ lực bảo tồn văn hóa của cộng đồng người Khmer.

]]>