Dân tộc thiểu số – Lamdepthammy.com https://lamdepthammy.com Nơi chia sẻ bí quyết để bạn luôn xinh đẹp, tự tin và quyến rũ. Sun, 31 Aug 2025 04:12:00 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/lamdepthammy/2025/08/lamdepthammy.svg Dân tộc thiểu số – Lamdepthammy.com https://lamdepthammy.com 32 32 Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://lamdepthammy.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Sun, 31 Aug 2025 04:11:55 +0000 https://lamdepthammy.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế. Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số. Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực.

Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Đồng Nai: Tuyển sinh vượt chỉ tiêu, trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật ươm mầm tài năng trẻ https://lamdepthammy.com/dong-nai-tuyen-sinh-vuot-chi-tieu-truong-trung-cap-van-hoa-nghe-thuat-uom-mam-tai-nang-tre/ Fri, 29 Aug 2025 21:05:39 +0000 https://lamdepthammy.com/dong-nai-tuyen-sinh-vuot-chi-tieu-truong-trung-cap-van-hoa-nghe-thuat-uom-mam-tai-nang-tre/

Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Đồng Nai vừa đạt được một cột mốc đáng chú ý trong mùa tuyển sinh năng khiếu nghệ thuật năm 2025. Với số lượng học sinh đăng ký theo học vượt xa chỉ tiêu ban đầu, trường đã thể hiện một tín hiệu tích cực về xu hướng theo đuổi nghệ thuật chuyên nghiệp trong giới trẻ, đặc biệt là con em của các đồng bào dân tộc thiểu số.

Theo kế hoạch tuyển sinh cho năm học 2025-2026, trường đã lên kế hoạch tuyển sinh 80 chỉ tiêu cho các chuyên ngành âm nhạc truyền thống, âm nhạc phương Tây, thanh nhạc và múa. Trong đợt 1, trường đã tuyển được 77 học sinh, và trong đợt 2, có 140 em đăng ký theo học. ThS Phùng Ngọc Long, Hiệu trưởng Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Đồng Nai, cho biết số lượng học sinh đăng ký vào chuyên ngành âm nhạc truyền thống đã tăng cao. Năm nay, các chuyên ngành múa và thanh nhạc cũng ghi nhận số lượng học sinh đăng ký nhiều hơn so với các năm trước. Điều này cho thấy rằng định hướng theo đuổi nghệ thuật đang dần nhận được sự quan tâm từ học sinh và gia đình.

Nhà trường cũng đã xây dựng kế hoạch đi thực tế, khảo sát địa bàn các xã và tuyển sinh một số học sinh vùng đồng bào các dân tộc và vùng biên giới. Đây là bước “tiền trạm”, khởi đầu để năm học tới, nhà trường sẽ triển khai tuyển sinh năng khiếu nghệ thuật tại 95 phường, xã. Đồng Nai là địa phương có đông đồng bào dân tộc sinh sống. Nhà trường mong muốn phát hiện và bồi dưỡng những năng khiếu nghệ thuật, nhất là các chuyên ngành âm nhạc truyền thống. Qua đó, tạo điều kiện cho các em được tiếp cận môi trường đào tạo nghệ thuật bài bản, có cơ hội phát triển theo con đường chuyên nghiệp.

Thông tin về quá trình tuyển sinh của trường có thể được tìm thấy tại https://www.dongnai.gov.vn hoặc liên hệ trực tiếp với trường để có thông tin chính xác và cập nhật nhất.

Với kết quả tuyển sinh tích cực, Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Đồng Nai đang kỳ vọng vào một năm học thành công, góp phần đào tạo và phát triển tài năng nghệ thuật cho thế hệ trẻ, đặc biệt là con em của các đồng bào dân tộc thiểu số.

Tóm lại, số lượng học sinh đăng ký theo học tại Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Đồng Nai đã vượt xa chỉ tiêu đề ra, thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng đối với nghệ thuật chuyên nghiệp. Trường sẽ tiếp tục triển khai các hoạt động đào tạo và bồi dưỡng năng khiếu nghệ thuật, tạo cơ hội cho học sinh phát triển tài năng và theo đuổi con đường nghệ thuật chuyên nghiệp.

]]>
Lâm Đồng: Bảo tồn văn hóa M’Nông gắn với phát triển du lịch bền vững https://lamdepthammy.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-phat-trien-du-lich-ben-vung/ Sun, 10 Aug 2025 02:14:06 +0000 https://lamdepthammy.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-phat-trien-du-lich-ben-vung/

Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với du lịch tại xã biên giới Tuy Đức (Lâm Đồng) đã được triển khai với mục tiêu đánh thức niềm tự hào và biến di sản thành tài sản hướng tới phát triển bền vững. Người M’Nông sở hữu kho tàng văn hóa phong phú, với những phong tục tập quán được gìn giữ qua nhiều thế hệ.

Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST
Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST

TS. Bùi Thị Hoa, Phó Phân viện trưởng phụ trách Phân viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam cho biết, sự thay đổi phương thức sản xuất, chuyển đổi cây trồng, quá trình hội nhập văn hóa đương đại đã tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa của người M’Nông. Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, cần kiểm kê và số hóa để lưu giữ; và thực hiện truyền dạy, kết nối thế hệ, qua đó giúp mạch nguồn truyền thống được duy trì, phát triển một cách bền vững hơn.

Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST
Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST

Mô hình bảo tồn và phát huy văn hóa M’Nông đã được ra mắt vào ngày 28/6 vừa qua. Dự án nằm trong khuôn khổ dự án 06 ‘Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch’ thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2024 trên địa bàn huyện biên giới Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông (cũ), nay là xã Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng.

Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST
Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST

Dự án đã tổ chức truyền dạy cồng chiêng, múa, ẩm thực truyền thống, dệt thổ cẩm, đan lát và quy trình làm rượu cần tại cộng đồng bon Bu N’Drung. Các buổi tập huấn chuyên sâu với sự tham gia của các chuyên gia về di sản văn hóa các dân tộc, kỹ năng thực hiện bảo tồn và phát triển văn hóa trên địa bàn, ‘đánh thức’ khả năng trình diễn nghệ thuật dân gian, phát triển du lịch bằng cách ‘biến di sản thành tài sản’, tạo sinh kế cho cộng đồng một cách bền vững.

Mô hình đã được bàn giao cho chính quyền xã Tuy Đức mới để tiếp tục vận hành và phát huy, có chương trình kết nối các doanh nghiệp, cơ sở giáo dục địa phương; tạo liên kết gắn với các điểm du lịch – tài nguyên tự nhiên và nhân văn trên địa bàn. Đồng thời, kết nối với các tour-tuyến giới thiệu Nhà văn hóa cộng đồng, không gian trưng bày ‘Hội tụ sắc màu văn hóa truyền thống M’Nông’ và không gian nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng, dân ca, dân vũ; cùng trải nghiệm ẩm thực ‘hương vị rừng, hương vị suối’… để trở thành điểm đến hấp dẫn.

Với mong muốn biến di sản thành tài sản, mô hình này không chỉ gắn kết du lịch với phát triển kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho địa phương, mà còn nâng cao ý thức của người dân về vốn giá trị truyền thống, bảo tồn các giá trị văn hóa M’Nông, và tăng cường sự kết nối cộng đồng.

]]>
Bảo tồn và phát huy múa Rô băm – Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia https://lamdepthammy.com/bao-ton-va-phat-huy-mua-ro-bam-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia/ Thu, 31 Jul 2025 11:12:58 +0000 https://lamdepthammy.com/bao-ton-va-phat-huy-mua-ro-bam-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia/

Nghệ thuật Rô băm, một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của người Khmer, đã và đang được gia đình nghệ nhân ưu tú Lâm Thị Hương ở ấp Bưng Chông, xã Tài Văn, tiếp tục bảo tồn và phát huy. Với tinh thần “cha truyền con nối”, đoàn múa Rô băm Bưng Chông đã tồn tại qua 6 thế hệ, từ năm 1933 đến nay.

Nghệ nhân Lâm Thị Hương tâm sự: “Cha mẹ tôi luôn dặn dò phải giữ gìn nghệ thuật này. Tôi rất yêu Rô băm. May mắn là con cháu trong gia đình vẫn tiếp nối nên đoàn mới còn được duy trì đến ngày hôm nay”. Sự tận tâm và đam mê của nghệ nhân Lâm Thị Hương đã giúp giữ gìn và truyền tải nghệ thuật Rô băm đến các thế hệ sau.

Trong những năm qua, các cấp, các ngành đã triển khai nhiều giải pháp bảo tồn Rô băm. Đoàn Rô băm ở Tài Văn đã được Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam tại Hà Nội mời ra phục dựng sân khấu cổ Rô băm, giúp giới thiệu rộng rãi hơn về nghệ thuật này. Đặc biệt, Đề án ‘Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Nghệ thuật Rô băm của người Khmer và Lễ hội Nghinh Ông tại huyện Trần Đề, giai đoạn 2023-2028’ đã được UBND tỉnh Sóc Trăng phê duyệt. Đề án không chỉ hướng đến việc gìn giữ, mà còn khai thác giá trị di sản phục vụ phát triển kinh tế – xã hội bền vững, tạo nền tảng cho phát triển du lịch văn hóa đặc sắc của địa phương.

Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cũng đã giúp xã Tài Văn thành lập Câu lạc bộ múa Rô băm với 18 thành viên, chủ yếu ở độ tuổi 15-18. Chị Thạch Na Qui, con gái nghệ nhân ưu tú Lâm Thị Hương, hiện là diễn viên của Đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng và là người trực tiếp truyền dạy nghệ thuật múa Rô băm cho các thành viên Câu lạc bộ múa Rô băm xã Tài Văn. “Các bạn trẻ rất yêu thích múa Rô băm nên học rất nhanh và có đam mê thật sự” – chị Na Qui phấn khởi nói.

Ông Thạch Quốc Thái, Trưởng Phòng Văn hóa – Xã hội xã Tài Văn, cho biết nghệ thuật Rô băm đã được công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao. Xã sẽ tiếp tục quảng bá loại hình nghệ thuật này, từng bước đưa Câu lạc bộ múa Rô băm tham gia trình diễn tại các sự kiện, lễ hội lớn. Việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật Rô băm không chỉ góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa của người Khmer, mà còn mở ra những cơ hội phát triển du lịch văn hóa đặc sắc cho địa phương.

]]>
Đoàn Đảng Bảo tàng Sơn La: Bảo tồn và lan tỏa di sản văn hóa dân tộc https://lamdepthammy.com/doan-dang-bao-tang-son-la-bao-ton-va-lan-toa-di-san-van-hoa-dan-toc/ Sun, 27 Jul 2025 20:00:36 +0000 https://lamdepthammy.com/doan-dang-bao-tang-son-la-bao-ton-va-lan-toa-di-san-van-hoa-dan-toc/

Trong nỗ lực bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc, lan tỏa sâu rộng truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa đến với cộng đồng, Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đã thể hiện tinh thần trách nhiệm và tình yêu với nghề. Đây là một phần quan trọng trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc coi trọng công tác bảo tồn di sản văn hóa, xem di sản văn hóa là linh hồn trường tồn của một dân tộc.

Để thực hiện các nội dung đột phá về bảo tồn văn hóa phi vật thể, bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, quản lý hiện vật, tư liệu, Chi bộ Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực. Đồng chí Ngô Thị Hải Yến, Bí thư Chi bộ, Giám đốc Bảo tàng và Thư viện tỉnh cho biết, Chi bộ có 45 đảng viên, tổ chức các cuộc sinh hoạt chuyên đề với nội dung phù hợp với tình hình thực tiễn của cơ quan. Mỗi cán bộ, đảng viên cụ thể hóa, đăng ký 2-3 phần việc làm theo Bác cụ thể sát với nhiệm vụ chuyên môn.

Giai đoạn 2016-2024, đã có 15 di sản văn hóa phi vật thể của Sơn La được công bố và đưa vào danh mục quốc gia; trong đó, nghệ thuật Xòe Thái được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; có 10 di tích được xếp hạng; hơn 35.000 hiện vật, tư liệu được bảo quản tại Bảo tàng Sơn La. Mỗi năm, đơn vị nghiên cứu, sưu tầm thêm từ 200 đến 300 hiện vật, tư liệu phục vụ trưng bày.

Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La cũng chú trọng ứng dụng số hóa di sản vào công tác chuyên môn; tiến hành kiểm kê đồng bộ, số hóa, chuẩn hóa tư liệu, hiện vật và đưa đến công chúng qua website hoặc mã QR-Code. Chi bộ đã chỉ đạo triển khai nhiều hoạt động quảng bá, giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp của Bác. Tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh, trưng bày cố định chuyên đề “Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Sơn La”, giới thiệu hiện vật, hình ảnh quý về tình cảm của Bác đối với đồng bào, cũng như tình cảm của đồng bào các dân tộc Sơn La dành cho Bác.

Trong 2 năm (2023 và 2024), Chi bộ đã triển khai mô hình “Giáo dục truyền thống lịch sử địa phương tại điểm Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La” cho học sinh các trường tiểu học, THCS, THPT trên địa bàn tỉnh; tổ chức 154 cuộc giáo dục truyền thông, thu hút trên 320.000 lượt học sinh, sinh viên và chiến sĩ các lực lượng vũ trang tham gia.

Bằng tinh thần trách nhiệm và tình yêu với nghề, Chi bộ Bảo tàng và Thư viện tỉnh đang từng ngày học và làm theo Bác bằng những việc làm cụ thể, thiết thực trong gìn giữ lịch sử, văn hóa và lan tỏa hình ảnh Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại đến với mỗi người dân, hun đúc tình yêu quê hương, đất nước từ những giá trị di sản bền vững.

]]>
Đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số: Kích cầu phát triển toàn xã hội https://lamdepthammy.com/dau-tu-vao-vung-dan-toc-thieu-so-kich-cau-phat-trien-toan-xa-hoi/ Sun, 27 Jul 2025 16:03:07 +0000 https://lamdepthammy.com/dau-tu-vao-vung-dan-toc-thieu-so-kich-cau-phat-trien-toan-xa-hoi/

Trong những năm gần đây, hệ thống điện, đường, trường, trạm tại các xã vùng sâu, vùng xa đã được xây dựng và nâng cấp đồng bộ. Sự phát triển cơ sở hạ tầng tại những khu vực này đã mang lại nhiều tiện ích cho người dân, giúp họ có điều kiện sống tốt hơn. Những con đường đất đã được bê-tông hóa, nhựa hóa, giúp việc đi lại và giao thương của nhân dân trở nên thuận lợi hơn. Trường học và trạm y tế cũng được xây dựng khang trang, tạo điều kiện cho con em đồng bào được học tập đầy đủ và người dân được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.

Việc đầu tư vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ giúp kích cầu phát triển toàn xã hội mà còn giảm bớt khoảng cách giữa các hộ gia đình giàu và nghèo. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả lâu dài, cần có sự đầu tư chung cho toàn vùng và đầu tư riêng cho từng đối tượng. Ông Điểu Điều, Trưởng ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai, cho rằng cần có sự đầu tư cho từng hộ gia đình để những hộ nghèo, cận nghèo có động lực vươn lên. Trước mắt, cần đầu tư con giống, nông cụ cho đồng bào. Về lâu dài, cần đầu tư nghề, đầu tư thay đổi tư duy, ý thức cho đồng bào để họ tự vươn lên.

Một cách tiếp cận mới trong việc xóa nghèo là hỗ trợ các hộ gia đình có điều kiện tự vươn lên, thay vì chỉ đơn giản là cấp phát hỗ trợ. Anh Lâm Nhanh, một cán bộ đoàn của xã Lộc Hưng, tỉnh Đồng Nai, đã tiên phong trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị và mở ra hướng đi mới cho địa phương. Nhờ được Quỹ hỗ trợ nông dân hỗ trợ thêm 50 triệu đồng, anh đã chủ động chuyển đổi vùng đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dưa lưới. Hiện nay, anh đã hỗ trợ thêm 10 hộ dân khác trồng dưa lưới trên diện tích 10 ha.

Tại các xã biên giới như Tân Tiến, Thiện Hưng, Hưng Phước, trước đây hạ tầng y tế thiếu và yếu, nhưng nhờ được đầu tư các nguồn lực, trong đó có nguồn vốn của Chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đã tạo nên một hệ thống chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng hiệu quả và chất lượng. Trạm y tế của xã Hưng Phước đã có đủ hạ tầng kỹ thuật và khối phụ trợ, cũng như đủ thuốc trong danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại trạm y tế xã theo quy định hiện hành.

Khi hệ thống y tế được đầu tư đồng bộ, người dân vùng sâu, vùng xa có điều kiện tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh kịp thời, giảm bớt bệnh tật và nâng cao thể trạng và chất lượng cuộc sống. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng sâu, vùng xa, góp phần củng cố niềm tin của đồng bào đối với chính quyền.

Thông qua tín dụng ưu đãi, người dân có điều kiện đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Chị Thị Geo, ở xã Đắk Nhau, năm 2022 được vay 50 triệu đồng từ nguồn vốn chính sách, đã mua một cặp bò giống và làm chuồng trại. Đến nay, đàn bò của chị đã phát triển lên năm con, tạo nguồn thu nhập ổn định và giúp gia đình chị chính thức thoát nghèo.

Những nguồn vốn chính sách của trung ương và địa phương như những cơn ‘mưa dầm’ thấm sâu vào đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa, từng bước thay đổi cuộc sống của người dân. Qua các chương trình đầu tư và hỗ trợ, người dân vùng sâu, vùng xa đang có điều kiện vươn lên, cải thiện cuộc sống và tiếp cận với các dịch vụ cơ bản như điện, đường, trường, trạm.

]]>
Thái Nguyên xây dựng hệ giá trị văn hóa để tôn trọng và phát huy bản sắc dân tộc https://lamdepthammy.com/thai-nguyen-xay-dung-he-gia-tri-van-hoa-de-ton-trong-va-phat-huy-ban-sac-dan-toc/ Fri, 25 Jul 2025 08:16:56 +0000 https://lamdepthammy.com/thai-nguyen-xay-dung-he-gia-tri-van-hoa-de-ton-trong-va-phat-huy-ban-sac-dan-toc/

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, xã hội hiện đại đang trải qua những biến đổi sâu sắc. Sự giao tiếp và tiếp cận thông tin không còn bị giới hạn bởi biên giới hay không gian địa lý. Trước những thay đổi này, tỉnh Thái Nguyên đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng hệ giá trị văn hóa nhằm định hướng tư tưởng, lối sống và nhân cách con người trong thời đại mới.

 Nghi lễ lấy nước của đồng bào các dân tộc xã Định Hóa được trình diễn phục vụ du khách.
Nghi lễ lấy nước của đồng bào các dân tộc xã Định Hóa được trình diễn phục vụ du khách.

Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Mặt trái của thị trường tự do là lối sống thực dụng, bon chen, đề cao lợi ích cá nhân. Sự sính ngoại và chạy theo những trào lưu lệch chuẩn có thể khiến văn hóa bản địa bị lu mờ. Công nghệ thông tin, dù mang lại nhiều tiện ích, cũng có thể khiến con người trở nên xa cách hơn, các giá trị truyền thống trong gia đình và cộng đồng dần bị mai một.

Nhận thức rõ những nguy cơ tiềm ẩn, tỉnh Thái Nguyên đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm định hướng hệ giá trị văn hóa cho người dân. Từ việc đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, giáo dục lối sống văn minh, phát huy chuẩn mực đạo đức truyền thống đến tổ chức các phong trào văn hóa ở cơ sở, tất cả đều hướng tới mục tiêu xây dựng con người Thái Nguyên phát triển toàn diện.

Thái Nguyên là tỉnh có nhiều địa hình phức tạp, với gần 50 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn 92 xã, phường. Dù còn nhiều khó khăn về kinh tế, các cộng đồng dân tộc tại đây vẫn giữ gìn được bản sắc riêng, với những triết lý sống sâu sắc, đầy tính nhân văn. Sự đoàn kết, tính cộng đồng, lòng thủy chung, sự tôn kính tổ tiên vẫn được gìn giữ như những giá trị cốt lõi.

Để lan tỏa những giá trị tích cực trong cộng đồng, tỉnh Thái Nguyên đã triển khai mạnh mẽ các phong trào như ‘Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa’, ‘Xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa’ gắn với việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Các hoạt động này không chỉ góp phần định hướng lối sống lành mạnh mà còn giúp khơi dậy tinh thần tự giác, ý thức gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa trong mỗi người dân.

Một trong những điểm sáng trong công tác xây dựng hệ giá trị văn hóa của tỉnh là việc chú trọng khuyến khích cộng đồng dân tộc thiểu số giữ gìn truyền thống văn hóa đặc trưng. Hằng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đều lựa chọn các nghệ nhân dân gian là người dân tộc thiểu số tham gia liên hoan, hội diễn văn hóa do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức.

Từ việc coi trọng văn hóa, tư tưởng, Thái Nguyên đã tạo dựng được môi trường xã hội ổn định, góp phần vào sự phát triển toàn diện của con người. Người dân, đặc biệt là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa ngày càng có ý thức hơn trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc, chủ động ‘miễn dịch’ với các dòng văn hóa lệch lạc, độc hại. Trong cơ chế thị trường, dù chịu nhiều tác động vật chất, nhưng nhiều gia đình vẫn giữ vững nếp sống nghĩa tình, gắn bó. Trong thời đại số hóa, người dân biết sử dụng công nghệ thông tin một cách chủ động, có chọn lọc, không bị lệ thuộc hay đánh mất chính mình… góp phần xây dựng một xã hội hài hòa, nhân văn, phát triển bền vững từ nền tảng văn hóa.

]]>
Thách thức an ninh phi truyền thống ở vùng dân tộc thiểu số Việt Nam https://lamdepthammy.com/thach-thuc-an-ninh-phi-truyen-thong-o-vung-dan-toc-thieu-so-viet-nam/ Tue, 22 Jul 2025 20:42:04 +0000 https://lamdepthammy.com/thach-thuc-an-ninh-phi-truyen-thong-o-vung-dan-toc-thieu-so-viet-nam/

Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới và phức tạp trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Những thách thức này không chỉ xuất phát từ các vấn đề môi trường như biến đổi khí hậu, mà còn từ các vấn đề xã hội như dịch bệnh, di cư tự do, buôn bán người, tội phạm và khủng bố. Khi mà những thách thức này ngày càng trở nên nghiêm trọng và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc giải quyết chúng đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt từ các cấp chính quyền và sự tham gia tích cực của các tổ chức, cơ quan chuyên môn.

Các yếu tố an ninh phi truyền thống đang đặt ra những thách thức lớn cho sự phát triển bền vững ở các vùng DTTS. Biến đổi khí hậu, chẳng hạn, đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống và điều kiện kinh tế – xã hội của đồng bào DTTS. Thay đổi khí hậu không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp mà còn làm tăng nguy cơ mất an ninh lương thực, di cư và xung đột về tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, dịch bệnh, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vừa qua, đã cho thấy sự 취약 của hệ thống y tế ở các vùng DTTS, đồng thời làm trầm trọng thêm các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội.

Ngoài ra, di cư tự do và buôn bán người đang trở thành những vấn đề nghiêm trọng. Nhiều người dân ở các vùng DTTS, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, dễ bị tổn thương trước những hình thức bóc lột như buôn bán người. Hơn nữa, sự gia tăng của các hoạt động tội phạm và khủng bố cũng có thể dẫn đến tình trạng mất an ninh trật tự, làm mất niềm tin của người dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Nhìn chung, để đối phó với những thách thức này một cách hiệu quả, cần có những chính sách đồng bộ và toàn diện. Những chính sách này không chỉ cần tập trung vào việc cải thiện đời sống kinh tế – xã hội của đồng bào DTTS mà còn hướng đến việc nâng cao nhận thức về các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Xây dựng và củng cố các hệ thống an sinh xã hội, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ và ban ngành liên quan, cùng với việc tăng cường sự tham gia của cộng đồng là những yếu tố quan trọng.

Cụ thể hơn, việc đưa ra các chính sách hỗ trợ đặc thù cho từng vùng cần dựa trên cơ sở đánh giá tình hình thực tế và lắng nghe ý kiến của người dân địa phương. Các hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu như trồng rừng, tái tạo hệ sinh thái; phát triển các mô hình sản xuất bền vững; hỗ trợ tiếp cận với các dịch vụ y tế và giáo dục chất lượng; và nâng cao năng lực tự vệ của người dân trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống là những hướng đi hữu ích.

]]>